Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh ung thư phổ biến ở phụ nữ và có thể phòng ngừa hiệu quả thông qua sàng lọc định kỳ. Hoa Kỳ triển khai một chương trình sàng lọc ung thư cổ tử cung rộng rãi, bao gồm xét nghiệm Pap smear và xét nghiệm HPV, với chi trả từ các hệ thống BHYT công và tư nhân.
Có thể thiết lập gói phòng ngừa ung thư cổ tử cung thông qua BHYT
Chương trình sàng lọc ung thư cổ tử cung tại Hoa Kỳ bắt đầu được triển khai rộng rãi từ những năm 1950. Việc triển khai sàng lọc ung thư cổ tử cung đã góp phần quan trọng trong việc giảm tỷ lệ tử vong do ung thư cổ tử cung tại quốc gia này, với tỷ lệ tử vong giảm khoảng 70% trong vài thập kỷ qua.
Chương trình này được phát triển qua các năm, với sự tham gia của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) và Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (NCI), nhằm đảm bảo tiếp cận sàng lọc cho tất cả phụ nữ, đặc biệt là nhóm có thu nhập thấp và không có bảo hiểm.
Theo đó, hồi thập niên 1950 và 1960, phương pháp Pap smear bắt đầu được triển khai rộng rãi thông qua các thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, thời điểm này, các phòng xét nghiệm tế bào học còn hiếm và việc sử dụng xét nghiệm tế bào học để chẩn đoán bệnh chưa được chấp nhận rộng rãi.
Những năm 1970 và 1980, các tổ chức y tế lớn như CDC và NCI bắt đầu khuyến nghị sàng lọc ung thư cổ tử cung định kỳ cho phụ nữ từ 21 tuổi trở lên, giúp tăng cường nhận thức cộng đồng và tỷ lệ sàng lọc bệnh.
Hồi thập niên 1990 và 2000, các tiến bộ công nghệ đã cải thiện độ chính xác của xét nghiệm Pap smear. Hệ thống Bethesda, được giới thiệu vào năm 1988, đã cung cấp một phương pháp chuẩn hóa để báo cáo kết quả xét nghiệm Pap smear, giúp cải thiện việc theo dõi và quản lý bệnh nhân.
Đến năm 2012, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ đã cập nhật hướng dẫn sàng lọc ung thư cổ tử cung, khuyến nghị sử dụng xét nghiệm HPV kết hợp với xét nghiệm Pap smear cho phụ nữ từ 30 đến 65 tuổi.
Theo đó, phụ nữ từ 21 đến 65 tuổi được khuyến nghị tham gia sàng lọc định kỳ. Cụ thể, có 2 phương pháp xét nghiệm, bao gồm: Phương pháp Pap smear (Papanicolaou test); phương pháp xét nghiệm HPV (Human Papillomavirus test). Phương pháp Pap smear giúp phát hiện các tế bào bất thường trong cổ tử cung, có khả năng tiến triển thành ung thư nếu không được theo dõi hoặc điều trị kịp thời. Còn phương pháp xét nghiệm HPV giúp phát hiện nhiễm virus HPV, nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung.
Về tần suất sàng lọc, với phụ nữ từ 21-29 tuổi, thực hiện phương pháp xét nghiệm Pap smear mỗi 3 năm/lần; còn phụ nữ từ 30-65 tuổi, có thể lựa chọn một trong ba phương án: Pap smear mỗi 3 năm; xét nghiệm HPV mỗi 5 năm; kết hợp Pap smear và xét nghiệm HPV mỗi 5 năm.
Để thực hiện, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ đã xây dựng chi phí và cơ chế chi trả. Cụ thể: Chi phí trung bình một xét nghiệm Pap smear khoảng 371 USD nếu không có bảo hiểm và có thể cao hơn nếu thực hiện thêm các xét nghiệm chẩn đoán như: Xét nghiệm Pap truyền thống có mức phí 25-40 USD; xét nghiệm Pap dạng lỏng (ThinPrep) có mức phí 45-60 USD; hay như bao gồm khám phụ khoa có tổng mức phí khoảng 331 USD.
Về cơ chế chi trả, hệ thống Medicare thực hiện chi trả toàn bộ chi phí cho các xét nghiệm sàng lọc định kỳ; còn BHYT tư nhân hầu hết chi trả toàn bộ chi phí cho dịch vụ sàng lọc mà không yêu cầu đồng chi trả. Riêng với những người dân không có bảo hiểm thì có thể đến các phòng khám cộng đồng hoặc tổ chức như Planned Parenthood để được xét nghiệm với chi phí thấp hoặc miễn phí.
Chi phí xét nghiệm HPV tại Hoa Kỳ như sau: Xét nghiệm HPV tại phòng khám hoặc bệnh viện có chi phí 80-250 USD; xét nghiệm HPV tại nhà (kit tự xét nghiệm) có chi phí 75-150 USD, bao gồm bộ dụng cụ và phí xét nghiệm. Tuy nhiên, cơ chế chi trả có thể khác nhau tùy theo tiểu bang và loại bảo hiểm.
Điều trị cho một bệnh nhân ung thư cổ tử cung tại Việt Nam
Tại Việt Nam, mặc dù tỷ lệ tử vong do ung thư cổ tử cung đã giảm so với trước đây, nhưng vẫn còn cao, đặc biệt ở vùng nông thôn và khu vực dân tộc thiểu số. Việc mở rộng và tận dụng chính sách BHYT có thể trở thành công cụ then chốt để nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế phòng ngừa cho phụ nữ trên toàn quốc.
Từ kinh nghiệm của Hoa Kỳ cho thấy, sự kết hợp giữa chính sách bảo hiểm hiệu quả, chương trình sàng lọc định kỳ và truyền thông cộng đồng sẽ giúp nâng cao nhận thức, khuyến khích phụ nữ tham gia sàng lọc, phát hiện sớm ung thư cổ tử cung, qua đó góp phần giảm đáng kể tỷ lệ tử vong tại Việt Nam. Đây là hướng đi chiến lược, vừa khả thi về mặt chính sách, vừa mang tính bền vững trong dài hạn.
Trong đó, Việt Nam cần tập trung một số nhóm giải pháp sau: Mở rộng phạm vi chi trả của BHYT cho sàng lọc ung thư cổ tử cung; thiết lập các gói dịch vụ phòng ngừa trong BHYT; ưu tiên nhóm dân cư dễ bị tổn thương; tích hợp sàng lọc ung thư cổ tử cung vào trạm y tế cơ sở; tăng cường truyền thông và giáo dục về BHYT.
Hiện nay, BHYT tại Việt Nam đã chi trả một phần chi phí khám phụ khoa và xét nghiệm Pap smear, nhưng tỷ lệ chi trả còn hạn chế, đặc biệt đối với xét nghiệm HPV. Nếu học hỏi kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Việt Nam có thể bổ sung việc chi trả đầy đủ hoặc một phần đáng kể chi phí sàng lọc định kỳ (Pap smear, xét nghiệm HPV) cho các nhóm phụ nữ từ 21-65 tuổi, giúp giảm rào cản tài chính và nâng cao tỷ lệ sàng lọc.
Còn về thiết lập các gói dịch vụ phòng ngừa trong BHYT, việc tạo gói dịch vụ BHYT chuyên biệt cho phòng ngừa ung thư cổ tử cung sẽ bao gồm: Khám phụ khoa, Pap smear, xét nghiệm HPV và tư vấn kết quả. Việc này tương tự như Medicare tại Hoa Kỳ, với việc chi trả dịch vụ phòng ngừa định kỳ mà không yêu cầu đồng chi trả.
Về ưu tiên nhóm dân cư dễ bị tổn thương, thực tế cho thấy, nhóm phụ nữ ở vùng nông thôn, dân tộc thiểu số hoặc thu nhập thấp cần được BHYT đảm bảo chi trả toàn bộ chi phí hoặc có mức đồng chi trả thấp. Điều này có thể thực hiện thông qua quy định chính sách BHYT mở rộng hoặc các chương trình hợp tác với tổ chức phi chính phủ.
Bên cạnh đó, cần tích hợp sàng lọc ung thư cổ tử cung vào trạm y tế cơ sở. Thông qua đó, BHYT có thể chi trả dịch vụ sàng lọc ngay tại trạm y tế xã, bệnh viện khu vực, giúp nâng cao khả năng tiếp cận và giảm chi phí đi lại.
Ngoài ra, cần tăng cường truyền thông và giáo dục về BHYT. Đặc biệt, cần nâng cao nhận thức của người dân về quyền lợi sàng lọc ung thư cổ tử cung được chi trả bởi BHYT; hướng dẫn cách sử dụng BHYT để tiếp cận dịch vụ sàng lọc miễn phí hoặc chi phí thấp.
Nếu nghiên cứu vận dụng kinh nghiệm từ Hoa Kỳ, kết hợp với mở rộng và tối ưu hóa chính sách BHYT, sẽ giúp Việt Nam nâng cao tỷ lệ sàng lọc, phát hiện sớm ung thư cổ tử cung và giảm tỷ lệ tử vong; đồng thời đảm bảo quyền lợi y tế công bằng cho phụ nữ trên toàn quốc.
TS. Lưu Viết Tĩnh
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Trung tâm đã có quan hệ hợp tác nghiên cứu khoa học và được tài trợ của: Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ dân số liên Hiệp Quốc (UNFPA), UNILEVER Việt Nam, Quỹ phát triển quốc tế Vương quốc Anh (DFID), Tổ chức phòng chống mắt hột quốc tế (ITI), JICA Việt Nam,...